Tìm hiểu Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam kéo dài bao nhiêu năm? Trong nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, dân tộc ta đã phải trải qua hai lần chiến đấu, kháng chiến chống thực dân Pháp đô hộc. Chúng đã để lại nhiều bài học lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống về lòng yêu nước, sức mạnh của toàn quốc toàn dân tộc cho năm tháng xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Giai đoạn chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ 1 (1858 – 1930) – cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam kéo dài bao nhiêu năm?
Tìm hiểu về các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống pháp sẽ giúp chúng ta trả lời được câu hỏi “cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam kéo dài bao nhiêu năm?”)
Đầu tháng 9-1858, lần đầu tiên thực dân Pháp đã nổ họng súng tiến công ở khu vực Đà Nẵng, mở đầu cho chặng đường xâm lược đất nước Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, chúng ta phải đương đầu với hành động xâm lược từ phương Tây. Chúng ta hoàn toàn bị áp đảo về quân sự, trang thiết bị vũ khí và công nghệ quân sự. Trong gần 30 năm nối tiếp, Thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ, Bắc Kỳ, rồi tấn công kinh đô Huế (1883), buộc nhà Nguyễn phải nhượng bộ từng bước và ký các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874). , Quý Mùi (1883) và cuối cùng là Hiệp ước Giáp Thân (1884), công nhận chính quyền thuộc địa của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước phong kiến độc lập Triều đình Huế trở thành tay sai cho Pháp
Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã khuất phục bởi thực dân Pháp. Nhưng không thể đàn áp được tinh thần chiến đấu của dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn đầu, nhân dân ta cùng với quân đội triều đình đã dũng cảm đứng lên chống thực dân Pháp ở những địa bàn chúng chiếm, như: Hà Nội, Đà Nẵng, Gia Định, và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh đó, nhiều cuộc nổi dậy chống quân xâm lược xuất hiện ở các vùng địch chiếm đóng.
Sau khi nhà Nguyễn đầu hàng, cuộc đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới, quy mô và khí thế mạnh mẽ hơn. Phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã diễn ra sôi nổi trên cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885-1896. Điển hình là các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình (1886-1887) dưới thời Phạm Bành và Đinh Công Tráng; Bãi Sậy (1885-1889) dưới thời Nguyễn Thiện Thuật; Nguyễn Quang Bích và những người khác khởi nghĩa Hưng Hóa (1885 – 1889). Thêm vào đó là các cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân trên các vùng núi cao nguyên miền Trung, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy và lãnh đạo (1884-1913).
Các cuộc khởi nghĩa này đã thu hút đông đảo nghĩa quân tham gia, tạo được sức mạnh nổi dậy trên một địa bàn tương đối rộng lớn, sử dụng nhiều sáng tạo, kỹ thuật đánh phù hợp nên cũng giành được một số thắng lợi. Thế nhưng cuối cùng thì cũng bị đàn áp và tan rã. Nguyên nhân chính là do triều Nguyễn không có khả năng đại diện cho nhân dân trong việc chống thực dân Pháp xâm lược.
Các cuộc nổi dậy xuất hiện lẻ tẻ. Lúc thì nổi lên nơi này, lúc rộ lên địa bàn khác, thiếu một sự gắn kết và quy mô lớn trong cả nước. Thế nên dù hết sức anh dũng nhưng không đạt được thành công, mà “chỉ có thể bùng lên để rồi tắt, chính vì sự vắng bóng lực lượng lãnh đạo có đủ năng lực”.
Sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn cũng như những cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX đã chứng tỏ sự lỗi thời, bất lực hệ phong kiến, cũng như tình trạng thiếu lãnh đạo, thiếu chính sách dẫn dắt phù hợp để giành lại nền tự do, độc lập.
Cho chúng ta bài học sâu sắc về vai trò lãnh đạo, về sự kết nối sức mạnh toàn dân, toàn quốc cho sự nghiệp đấu tranh cứu nước. Cho đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cách mạng cứu nước, phóng dân tộc và sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam thì chúng ta mới thực sự chấm dứt sự khủng hoảng đường lối, chính sách cứu nước kéo dài đằng đẵng hàng chục năm. Dưới sự lãnh đạo và chỉ huy của Đảng, đứng đầu là vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa đấu tranh, giành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945), giành lại độc lập tự do cho đất nước Việt Nam.
Giai đoạn chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ 2 (1945 – 1954)
Tuy nhiên, trước bản chất tham lam, hiếu chiến, thực dân Pháp đã tập trung đưa dân tộc ta trở lại vòng nô lệ. Hơn 80 năm sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp vẫn tiếp diễn. Nhưng khác với chiến tranh nửa sau thế kỷ XIX, lần này người Việt Nam không chỉ có chủ nghĩa yêu nước mà còn có một đảng cách mạng tiên phong đại diện cho quyền lợi của toàn dân lãnh đạo. Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần nữa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp sức mạnh toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến, kiên quyết bảo vệ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, độc lập, chủ quyền của tổ quốc Việt Nam.
Đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ” do Đảng và toàn thể Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Một lần nữa cả dân tộc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến đầy máu lửa, đốn hạ giặc ở miền Nam, tiến hành hòa hoãn, phân hóa kẻ thù, xây dựng lực lượng. Đưa nhân dân bước vào cuộc chiến trường kỳ với một lòng tin quyết thắng: “dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.
rong 9 năm (1945-1954), vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nỗ lực xây dựng và củng cố nguồn lực, quân và dân ta đã không ngừng phát huy thế trận tiến công. Càng đánh lại càng mạnh, đưa đến những thắng lợi to lớn trong các chiến dịch: Việt Bắc Thu – Đông (1947), Biên Giới (1950), Hòa Bình (1951), Đông Xuân (1951 – 1952), Tây Bắc (1952) và cuối cùng là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953 – 1954) với chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu là trận chiến Điện Biên Phủ. Kết thúc năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Lời kết
Hy vọng qua những giai đoạn kháng chiến được nếu trên bạn đã nắm được câu trả lời của câu hỏi: “Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam kéo dài bao nhiêu năm?”. Và nắm được những bài học ý nghĩa mà cha ông ta đã để lại, hiểu hơn về lịch sử của dân tộc Việt Nam