Giai đoạn lịch sử việt nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19, nền văn học của nước Việt Nam ta như thế nào? Trong bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ lược về nội dung và hình thức văn học Việt Nam giai đoạn lịch sử việt nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19.
Về nội dung văn học việt nam trong giai đoạn lịch sử việt nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19
Văn học mang tính thời sự
Tính chất thời sự đã chi phối toàn bộ những vấn đề liên quan đến văn học và làm thay đổi bộ mặt của văn học. Văn học trong thời kỳ này ra đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt có nhiều biến cố trọng đại nên văn học gắn với chính trị và phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị. Và để phục vụ cho yêu cầu cấp thiết đó, những tác phẩm văn học lúc này đã phản ánh những chủ đề được quan tâm và nóng hổi của thời đại: Cuộc đấu tranh của nhân ta chống thực dân Pháp. Ðây được xem là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Trước đó thì chưa từng xuất hiện giai đoạn nào mà sự thay đổi về chủ đề và đề tài trong văn học lại có thể nhanh chóng và theo sát những vấn đề và biến cố đến vậy. Nhiều tác phẩm yêu nước ra đời đã ghi lại những biến cố lớn lao của đất nước.
Văn học mang tính trữ tình
Trong văn học thời kỳ này kế thừa tinh hoa trữ tình của văn học dân gian và văn học hàn lâm đã tiến thêm một bước theo môi trường lịch sử mới. Vì vậy, nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của chất trữ tình của các nền văn học trước, chủ yếu là đề tài con người nên chất trữ tình của nó rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, chất thơ trữ tình ở đây là tình yêu nước, xuất phát từ cảm hứng mới về chủ đề lòng yêu nước liên quan đến những sự kiện trọng đại của đất nước. Văn học thời kỳ này dùng những từ ngữ thâm thúy, nghiêm trang để thể hiện lòng yêu nước của nhân dân. Vì vậy, yếu tố lãng mạn đóng một vai trò không thể thiếu trong việc đảm bảo một cái nhìn đáp ứng được cả thực tế và mong đợi của con người. Ngay Nguyễn Khuyến và Tú Xương là những nhà thơ trào phúng đích thực, nhưng họ cũng có những bài thơ trữ tình độc đáo. Có thể nói, thơ văn yêu nước có chất trữ tình đậm đà nhưng thiếu chất trào phúng, chất trữ tình là yếu tố cơ bản của văn học yêu nước chống Pháp.
Về hình thức văn học việt nam trong giai đoạn lịch sử việt nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ tồn tại bao gồm 2 loại chữ Hán và chữ Nôm. Một số nhà văn viết hoàn toàn bằng chữ Hán như Miên Thẩm, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn… Có tác giả viết bằng chữ Hán vừa bằng chữ Nôm như Nguyễn Khuyến. Có tác giả viết chủ yếu bằng chữ Nôm như Nguyễn Ðình Chiểu, Trần Tế Xương… Ngoài ra, còn khuyến khích sử dụng chữ quốc ngữ dưới nhiều hình thức: tin tức, chuyển ngữ, dịch thuật … Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đã thực hiện nhiều hoạt động quảng bá chữ quốc ngữ, như phiên âm, dịch thuật nhiều tác phẩm trong Phông chữ Nôm và chữ Hán sang chữ Quốc ngữ. Ngôn ngữ, viết truyện cổ tích bằng tiếng bản ngữ, làm từ điển, ngữ pháp,…Sự ra đời cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1895 và 1896 được xem là một công trình biên soạn có giá trị. Một loạt các ngôn ngữ rất mới lạ, rất đơn giản hàng ngày được nhập vào bằng chất thơ và chủ nghĩa hiện thực có giá trị
Thể loại
Thể loại thể hiện được tính hiện đại, đại chúng và mang tính nhân dân khá sâu sắc. Các thể loại dài như: Dương Từ Hà Mậu, Truyện thơ Lục vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Các thể loại ngắn như: Sử ca, thơ Ðường, thơ lục bát, về hịch, văn tế… Trong đó hịch và văn tế là là hai thể loại tiêu biểu, bởi chúng thích hợp để khơi dậy và bộc lộ cảm xúc mạnh mẽ. Loại ngắn là loại thành công nhất vì có thể kết hợp nhanh, có tính chuyên đề, đáp ứng nhanh nhu cầu chiến đấu và tình cảm của nhân dân. Kiểu chính kịch: Tuồng, chèo cũng không ngừng phát triển. Về nội dung, không có nhiều đổi mới so với trước, nhưng có nhiều đóng góp về hình thức.
Về mặt hình thức nghệ thuật
Phương pháp chủ yếu vẫn là phương pháp sáng tác truyền thống. Tuy nhiên, do yêu cầu phản ánh chân thực, gần gũi để khơi dậy động cơ đấu tranh, văn học đã sử dụng nhiều chất liệu hiện thực, có những khác biệt tinh tế và ít nhiều phá bỏ khuôn khổ của lối viết truyền thống. Ðặc biệt là Trần Tế Xương, Tác giả đã có nhiều đóng góp trong việc tạo ra các phương pháp trong thế giới thực. Về phần văn học chữ Hán, cách thể hiện của thơ chưa được cập nhật. Đối với văn xuôi Trung Quốc, văn xuôi khác trước, câu văn rõ ràng và đơn giản hơn, lập luận chặt chẽ và logic hơn.
Trong văn học chữ Nôm, nghệ thuật là hiện thân của di sản truyền thống. Mặt khác, vẫn còn khá nhiều đổi mới. Trong các tác phẩm văn học thời kỳ này, những biểu hiện phổ biến hiếm thấy là quy ước, quy củ. Trong thơ hiện thực trào phúng, do tính đặc thù và cá tính riêng biệt của nó, so với thơ trữ tình, nhà thơ có thể dùng tiếng cười để loại bỏ rõ ràng hơn những tư tưởng siêu hình, phiến diện và trọng nghĩa của mình. Với cách thể hiện cá nhân, đặc biệt là lịch sử, thơ ca thời kỳ này còn xuất hiện cái tôi trữ tình. Phong cách cá nhân rõ ràng. Đại từ ngôi thứ nhất số ít, như tôi, tôi tớ, anh, em, ông, tôi … thay thế chúng ta, hoặc là cùng một loại chủ ngữ ẩn. Điều này làm cho các tác phẩm văn học thời kỳ này có một tiếng nói riêng, vừa gần gũi vừa bình dân.
Kết luận
Đây là giai đoạn cuối của nền văn học bị tư tưởng phong kiến thống trị. Văn học thời kỳ lịch sử việt nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 đã bám sát cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với quân Pháp, ghi lại một cách chân thực giai đoạn lịch sử đau thương và oai hùng của đất nước, ghi lại cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân ta. Có thể nói, đặc điểm của thời kỳ này là hiệu quả chiến đấu cao, tính dân tộc cao, uy tín cao.
Từ trước đến nay, các tác phẩm yêu nước luôn là một chương mới trên tinh thần chống xâm lược, không nhân nhượng, đầu hàng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm không chỉ về tư tưởng, tình cảm mà còn về nhiều mặt, cả một thời kỳ và một thời gian dài. thời gian.